Rượu lúc đầu mới uống ít hoặc chưa ngấm sâu chỉ ức chế trung
tâm ức chế ở não, tạo ra hiện tượng giống như hưng phấn (nói nhiều, hoa
chân múa tay), sau đó do uống thêm hoặc do rượu ngấm sâu mà sự ức chế ấy
lan khắp não (không biết gì, ngủ như chết)... Như vậy, trong mọi giai
đoạn rượu là chất ức chế. Vì vậy không dùng rượu khi dùng các thuốc sau:
Thuốc
ức chế hệ thần kinh trung ương: Các thuốc như thuốc an thần (diazepam)
điều chỉnh rối loạn quá trình hưng phấn - ức chế, thuốc ngủ
(phenobarbital) ức chế quá trình kích thích, thuốc động kinh
(carbamazepin) làm giảm quá trình kích thích... khi dùng cùng với rượu
thì rượu sẽ làm tăng tác dụng của các thuốc này, gây độc giống như dùng
quá liều.
Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương: Khi dùng các
thuốc này với rượu thì rượu sẽ làm đảo ngược tác dụng của thuốc làm cho
thuốc giảm hiệu lực.
Khi uống thuốc phải kiêng rượu để tránh những tương tác bất lợi.
Thuốc
có tác dụng phụ ức chế hệ thần kinh trung ương: Các kháng histamin thế
hệ cũ (chlopheniramin, alimemazin, promethazin cycloheptadin) thấm vào
não gây ức chế. Đối với các thuốc này khi dùng cùng với rượu thì rượu
làm tăng tác dụng của thuốc, gây độc.
Rượu khi uống làm giãn mạch
làm thoát nhiệt ra ngoài, mặt đỏ bừng làm cho có cảm giác ấm nhưng thực
chất là làm giãn mạch làm thân nhiệt hạ. Sự giãn mạch này đưa đến hạ
huyết áp. Nếu dùng chung với thuốc làm hạ huyết áp (dù với cơ chế làm hạ
huyết áp như thế nào) thì rượu cũng làm tăng tính hạ huyết áp của thuốc
gây nên việc giảm huyết áp đột ngột, nguy hiểm.
Rượu gây độc cho
gan, nếu dùng rượu chung với các nhóm thuốc gây độc cho gan như thuốc
chống lao (pyrazinamid), thuốc sốt rét (mepraquin) thuốc chống nấm
(griseopulvin), thuốc mạch vành (herhexilin), thuốc chữa loạn nhịp
(quinidin) thì rượu và thuốc cùng gây độc cho gan làm cho tính độc cho
gan tăng lên. Ngoài ra cần biết khi uống rượu, gan phải dùng gluthation
để giải hóa làm cạn kiệt chất này và những thuốc nào nhờ chất này mà
chuyển hoá thành chất không độc như paracetamol thì quá trình chuyển hóa
bị trở ngại và trở nên độc cho gan hơn.
Rượu làm tăng phản ứng
hạ đường huyết. Khi dùng chung với các thuốc hạ đường huyết trong bệnh
tiểu đường týp II (chlopropamid, glibenclamid, glipizid tolbutamid) thì
nó tác dụng như một chất hiệp đồng làm hạ đường huyết đột ngột, gây hôn
mê.
Rượu còn bị một số kháng sinh gây ra phản ứng sợ rượu (gọi là
phản ứng altabuse) như các kháng sinh nhóm cephalosporin, nhóm phenicol
(chloramphenicol), nhóm azol (metronidazol, ketocanzol). Khi dùng các
nhóm kháng sinh này (hiện nay có rất nhiều) thì không được uống rượu.
Rượu
còn gây ra một số phản ứng phức tạp trên các kháng viêm không steroid
thế hệ cũ. Các kháng viêm không steroid thế hệ cũ vừa ức chế
cyclo-oxydase II làm giảm đau, ức chế cả cyclo-oxydase I gây tác dụng
phụ trên đường tiêu hóa. Với tác dụng ức chế của mình, rượu làm tăng tác
dụng có hại nhiều hơn. Vì thế, khi dùng các kháng viêm không steroid
thế hệ cũ (như aspirin, paracetamol, ibuprofen...) phải tuyệt đối kiêng
rượu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét